CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN C: TÔI TIN HẰNG SỐNG VẬY - AMEN
Từ thuở bình minh của nhân loại, con người luôn thao thức trước một câu hỏi muôn thuở: Sau cái chết là gì? Dù khoa học ngày nay đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc, nhưng không một thành tựu nào có thể giải đáp trọn vẹn nỗi khắc khoải ấy. Cái chết vẫn là giới hạn cuối cùng, nơi mọi quyền lực, danh vọng và của cải đều trở nên vô nghĩa. Thế nhưng, chính từ thực tế đau thương và không thể tránh ấy, mạc khải Kitô giáo mở ra cho chúng ta một chân trời mới: chân trời của sự sống lại, của một sự sống viên mãn và bất diệt trong Thiên Chúa. Niềm tin ấy không chỉ xoa dịu nỗi sợ hãi trước cái chết, mà còn đem đến cho con người hy vọng và ý nghĩa sâu xa trong từng ngày sống.
Phụng vụ hôm nay đặt trọng tâm vào niềm tin vào sự sống đời sau, một chủ đề nền tảng nhưng thường bị hiểu lầm, thậm chí bị coi là viển vông. Cả ba bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta từ kinh nghiệm tử đạo và sự trung tín với lề luật, đến sự kiên vững của đức tin tới mạc khải trọn vẹn nơi Đức Kitô, Đấng là sự sống lại và là sự sống. Ngài “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38)
Bài đọc 1, trích từ sách 2Mcb 7,1-14. Có thể nói đây là một trong những bản văn Cựu Ước rõ ràng nhất về niềm tin vào sự sống lại. Đứng trước sự kết án của nhà vua, một trong 7 anh em nhà Macabê dõng dạc tuyên bố: “Nhà vua chỉ giết được thân xác, nhưng Vua muôn loài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2 Mcb 7,9). Niềm tin đó dựa trên sự trung tín giao ước của Thiên Chúa: nếu Thiên Chúa là Đấng công bình và trung tín, Ngài sẽ không để kẻ trung thành bị hủy diệt mãi mãi.
Nếu các 7 anh em nhà Maccabê đã can đảm chấp nhận cái chết để trung thành với niềm tin của mình, thì các tín hữu ở Thêxalônica lại rơi vào tình cảnh hoang mang khi nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm đã gần kề. Chính nỗi sợ hãi ấy làm cho họ thất vọng, mất định hướng và buông xuôi cuộc sống. Trước hoàn cảnh đó, thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở họ rằng niềm tin vào sự sống đời sau không khiến người tín hữu lánh xa trần thế, nhưng ngược lại, mời gọi họ sống tốt hơn trong hiện tại, với tinh thần phục vụ, cầu nguyện và hy vọng: Xin Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ơn yên ủi và bền vững trong việc lành.
Nơi bài Tin Mừng, thánh sử Luca đã thuật lại cuộc đối thoại hay đúng hơn là một cuộc chất vất của những người theo nhóm Xa-đốc, những ngời thuộc hàng tư tế nhưng không tin có sự sống lại. Như để chế nhạo Chúa Giêsu và những người tin có sự sống đời sau. Để chứng tỏ là mình có lý, những người này đã dựa trên luật “levirat” về hôn nhân: nếu người anh đã kết hôn mà chưa có con, sau đó qua đời, thì người em phải lấy người chị dâu đó để sinh con nối dõi. Người con trai đầu lòng sinh ra từ mối quan hệ này được coi là người thừa kế hợp pháp của người đàn ông đã khuất.
Theo đó, họ đã dựng nên một câu chuyện không có ở thực tế: có 7 người anh em thay kết hôn với một người phụ nữ, rồi cả 7 người đều chết, để chất vấn Chúa Giêsu: thế thì khi đến ngày sống lại người phụ nữ đó sẽ là vợ của ai, vì tất cả bảy người đều lấy người phụ nữ ấy làm vợ? Khó thế mà họ cũng nghĩ ra. Chúng ta nhận thấy đang có một sự lầm tưởng ở đây, khi mà những thuộc nhóm Xa-đốc này nghĩ rằng thế giới mai sau chính là sự nối dài của sự sống hiện tại. Ở Việt Nam cũng có thói quen đốt vàng mã, đôla, xe cộ, nhà lầu…cho người cõi âm dùng, vì người ta nghĩ rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên những người đã chết cũng cần xe, cần tiền… để sử dụng.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không sa vào cái bẫy lý luận, mà đã mạc khải một khía cạnh mới của đời sống: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần.” (Lc 20,34-36). Trong câu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đã phân biệt một cách rất rõ ràng về hai trật tự hiện sinh: đời này là thời gian, thân xác hữu hạn và đời sau là sự thông phần vào đời sống của chính Thiên Chúa. Do đó sự sống lại không phải là sự kéo dài cuộc sống hiện tại, mà là một biến đổi bản thể, một “thân xác vinh hiển” (1Cr 15,42-49). Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất (Kh 21,3-4).
Điều này cho thấy rằng những người đã vượt qua sự chết hữu hạn nơi trần gian này, họ vẫn sống trong Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng hằng sống. Và như vậy, mạc khải về sự sống lại không phải là một điều xa xôi sau khi chết, nhưng là sự tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa, được khai mở trong Đức Kitô phục sinh ngay từ trong giây phút hiện tại. Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta tuyên xưng: Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống. Niềm tin này mạc khải cho biết chúng ta không phải là những hữu thể, những sinh linh được sinh ra để chết. Cuộc sống của chúng ta không phải là một hành trình tiến về nấm mộ lạnh lẽo và u tối. Tin có sự sống đời sau giúp thay đổi tư duy và thay đổi cả lối sống hiện tại của chúng. Đồng thời trao cho chúng ta sức mạnh nội tại để sống mỗi ngày với niềm vui và ý nghĩa hơn. Khi đó cái chết không còn là điều để sợ hãi, mà trở thành điểm hẹn của niềm tin và tình yêu trong Thiên Chúa.
Chỉ trong vài tháng qua, nhiều tỉnh thành ở Miền Bắc và Miền Trung Việt Nam đã phải hứng chịu những cơn bão và những trận lũ quét lịch sử, để lại những hậu quả bi thảm: nhà cửa bị tàn phá, ruộng vườn mất trắng, nhiều người đã chết và biết bao sinh mạng đang còn bị đe dọa. Khi nhìn thấy những thực tại đổ nát quanh mình, chúng ta không thể nào mà không quặn đau cái nỗi đau của đồng bào mình. Niềm tin vào Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, giúp người tín hữu nhận ra sự hiện diện của Ngài ngay giữa những khổ đau để hiệp hành với dân Chúa và nâng đỡ những tâm hồn yếu đuối. Ngang qua những thử thách ấy, mỗi người chúng ta được mời gọi thể hiện lòng yêu thương, bác ái với anh chị em của mình và luôn sống niềm hy vọng hướng về sự sống viên mãn mà Thiên Chúa đã hứa ban.
Lm. Joseph Nguyễn Kế

